Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyền thông. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Truyền thông. Hiển thị tất cả bài đăng

Tự ý đăng ảnh người khác lên Facebook sẽ bị xử phạt 20 triệu đồng

Kể từ ngày 15/4/2020, Nghị định 15/2020/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, CNTT và giao dịch điện tử sẽ chính thức có hiệu lực. 



Đáng chú ý khi Điều 101 của Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định rất cụ thể về biện pháp xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định về trách nhiệm sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Đây là quy định mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành nhằm thắt chặt việc quản lý đối với các hành vi vi phạm về thông tin trên không gian mạng.

Theo đó, người thực hiện hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cơ quan, tổ chức, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trên mạng xã hội sẽ bị xử lý với mức phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.
Đây cũng là mức xử phạt vi phạm hành chính đối với người cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan, dâm ô, đồi trụy, không phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Bên cạnh đó, hành vi cung cấp, chia sẻ thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn, các thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội, đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc đều sẽ bị xử lý với mức phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng.

Với Điều 102 của Nghị định 15/2020/NĐ-CP, những người có hành vi lưu trữ thông tin cá nhân của người khác thu thập được trên môi trường mạng vượt quá thời gian quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận giữa hai bên sẽ bị xử phạt với số tiền từ 2 - 5 triệu đồng. 
Bên cạnh đó, theo khoản 3 của Điều 102, hành vi thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật sẽ bị xử phạt với số tiền từ 10 - 20 triệu đồng.
Với quy định trên, việc đăng tải thông tin, hình ảnh của người khác lên mạng xã hội khi không có sự đồng ý của chính chủ sẽ bị phạt nặng, với mức phạt có thể tới 20 triệu đồng.
Đây cũng là mức xử phạt đối với hành vi cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác hoặc để quảng cáo, tuyên truyền cho các hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bị cấm. 
Bên cạnh đó, việc cung cấp, trao đổi, truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin, dịch vụ có nội dung đánh bạc hoặc phục vụ đánh bạc; dâm ô, đồi trụy, mê tín dị đoan, trái đạo đức, thuần phong mỹ tục sẽ bị xử phạt với số tiền từ 30 - 50 triệu đồng. 
Một nội dung đáng chú ý trong nghị định mới so với nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13-11-2013 đó là quy định rõ mức xử phạt vi phạm hành chính đối với các hành vi tung thông tin giả mạo, gây hoang mang dư luận trên mạng xã hội.
Cụ thể, điều 101 nghị định mới quy định mức phạt tiền từ 10 - 20 triệu đồng đối với hành vi lợi dụng mạng xã hội để cung cấp, chia sẻ thông tin giả mạo, thông tin sai sự thật, xuyên tạc, vu khống; Cung cấp, chia sẻ thông tin cổ súy các hủ tục, mê tín, dị đoan; các thông tin miêu tả tỉ mỉ hành động chém, giết, tai nạn, kinh dị, rùng rợn; Cung cấp, chia sẻ thông tin bịa đặt, gây hoang mang trong nhân dân, kích động bạo lực, tội ác, tệ nạn xã hội hay cung cấp các ấn phẩm vi phạm sở hữu trí tuệ, chưa được phép lưu hành; Cung cấp, chia sẻ hình ảnh bản đồ Việt Nam nhưng không thể hiện hoặc thể hiện không đúng chủ quyền quốc gia hoặc chia sẻ đường dẫn đến thông tin trên mạng có nội dung bị cấm.

Định hướng đúng Condotel để phát triển du lịch bền vững

Rất nhiều chuyên gia phân tích về việc Cocobay Đà Nẵng đổ vỡ mô hình kinh doanh đang phát triển rầm rộ và trở thành xu hướng đầu tư thành công ở các nước. Những nguyên nhân nội tại và câu chuyện quản lý của chủ đầu tư Cocobay càng cho thấy chiến lược, tầm nhìn vĩ mô của dự án đã bị xem nhẹ.



Tại sao thế giới chọn mô hình Condotel để phát triển du lịch bền vững

Nhằm phát huy các tiềm năng của biển trong thế kỷ 21, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã thông qua Nghị quyết số 09 ngày 9.2.2007 về "Chiến lược biển VN đến năm 2020", trong đó nhấn mạnh thế kỷ 21 được thế giới xem là thế kỷ của đại dương. 
Nghị quyết đã xác định các quan điểm chỉ đạo về định hướng Chiến lược biển VN đến năm 2020, Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn.
Cùng với tầm nhìn vĩ mô, các địa phương có biển đã nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp không khói - Du lịch và các dịch vụ phụ trợ. Có thể thấy chỉ trong 10 năm trở lại đây, hình ảnh Việt Nam xinh đẹp và thân thiện ngày một được quảng bá rộng hơn, góp phần tăng lượng khách du lịch nước ngoài. 

Tổng cục Thống kê cho biết tháng 11/2019 ghi nhận mốc mới của du lịch Việt Nam với lượng khách quốc tế đạt trên 1,8 triệu lượt người, cao nhất từ trước đến nay, nâng tổng số khách quốc tế đến nước ta trong 11 tháng đạt gần 16,3 triệu lượt người, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm trước.

Năm
Tổng thu từ khách du lịch (nghìn tỷ đồng)
Tốc độ tăng trưởng (%)
2000
17,40
2001
20,50
17,8
2002
23,00
12,2
2003
22,00
-4,3
2004
26,00
18,2
2005
30,00
15,4
2006
51,00
70,0
2007
56,00
9,8
2008
60,00
7,1
2009
68,00
13,3
2010
96,00
41,2
2011
130,00
35,4
2012
160,00
23,1
2013
200,00
25,0
2014
230,00
15,0
2015
355,50
*
2016
417,20
17,3
2017
541,00
29,7
2018
637,00
17,7
Tổng thu từ khách du lịch giai đoạn 2000 – 2018 (Theo tổng cục Du lịch VN)
Tạp chí Forbes ghi nhận con số tăng trưởng du lịch thần tốc của Việt Nam: "Năm 2018 Việt Nam đón 95,5 triệu du khách với tổng doanh thu toàn ngành du lịch vượt 620.000 tỉ đồng (khoảng 27 tỉ USD), tăng khoảng 11% so với năm trước và đưa tổng doanh thu của ngành này năm qua tăng gấp hơn 10 lần kể từ 2008."
Để đạt được những con số trên, nếu các cơ sở lưu trú, hạ tầng và giao thông không phát triển đồng bộ chắc chắn du khách sẽ không có ấn tượng tốt đẹp và không trở lại. Một trong những khu vực phát triển nóng chính là đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng với đứa con lai condotel ra đời như một xu hướng tất yếu, đang được cả thế giới đang chạy theo.
Nói một cách đơn giản và dễ hiểu nhất, hình thức đầu tư tài chính thông qua condotel là mô hình đảm bảo an toàn nhất hiện nay bởi vì nhà đầu tư sở hữu tài sản là bất động sản, được trả lãi suất và cam kết thu hồi vốn, được hưởng quyền nghỉ dưỡng (có giới hạn) tại khu vực dự án đầu tư. Như vậy, nếu so với gửi tiền ngân hàng, mua những gói du lịch trên hệ thống timeshare, đầu tư condotel quá nhàn hạ mà an toàn.
Condotel được hiểu là Condo (căn hộ) kết hợp với Hotel (khách sạn). Trên thế giới, khái niệm condotel (căn hộ - khách sạn) được hiểu là khi chủ đầu tư bán căn hộ, thì căn hộ đó bắt buộc phải đưa trở lại cho chủ đầu tư để vận hành. Người mua chỉ được quyền sử dụng căn hộ đó 1 - 2 tuần/năm.
Phát triển du lịch làm bùng sáng ngành F&B
Khi du lịch địa phương nào đó phát triển đồng nghĩa với hạ tầng, giao thông phát triển theo. Mặc dù đã xã hội hóa đầu tư hạ tầng giao thông nhưng đổi lại Nhà nước vẫn gánh theo áp lực trả nợ và thu thuế của các BOT, kéo theo nhiều hệ lụy khó ngờ.
Trong bối cảnh bừng sáng du lịch, một trong những ngành được lợi thế cao chính là ngành F&B (ngành thực phẩm và dịch vụ ăn uống) và giải trí. Khách đến càng nhiều, nhà hàng quán ăn uống, cửa hiệu bán lẻ, vui chơi giải trí càng phát triển. Khách quốc tế càng đến nhiều, nhà hàng khách sạn cao cấp càng nở rộ, bộ mặt đô thị chuyển biến hiện đại hơn, đẹp hơn.
Theo báo cáo của công ty nghiên cứu thị trường Euromonitor, giai đoạn 2014-2019, thị trường ngành thực phẩm và dịch vụ ăn uống Việt Nam (F&B) có tốc độ tăng trưởng trung bình 18%/năm. Trong khi đó, Statista cho rằng năm 2019, doanh thu từ thị trường F&B tại Việt Nam có thể đạt mốc 200 tỷ USD, tăng đến 34,3% so với số liệu của năm 2018. Điều này cho thấy càng về sau, tốc độ tăng trưởng ngành F&B ngày càng cao.
Nhìn lại sự phát triển condotel và bài học thành công
Ông Nguyễn Văn Hậu, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Bất động sản Asian Holding cho rằng, TP HCM đang có những dự án phát triển theo hình thức condotel, nhưng vì luật chưa rõ ràng, nên doanh nghiệp chọn tên khác cho các loại hình căn hộ này, như smartel. Việc đặt tên gì không quan trọng bằng việc sản phẩm vận hành như thế nào, có mang lại lợi nhuận cho khách hàng hay không.
Nguồn cung và tiêu thụ căn hộ condotel mới tính theo quý
Một trong những kinh nghiệm thành công của các chủ đầu tư condotel chỉ xoay quanh việc quản trị và cân bằng… lòng tham của các bên tham gia. Khi ông chủ khách sạn Havana trên đường Trần Phú chốt giá bàn giao căn hộ từ 1,5 tỷ đồng một căn hộ condotel cách đây vài năm, nhiều người cho rằng bán quá rẻ, sao không đẩy lên cao hơn để tăng lợi nhuận.
Thực tế, rất nhiều dự án bất động sản nghỉ dưỡng có vị trí tốt đã tăng giá chóng mặt nhằm khẳng định giá trị. Thế nhưng, sự tăng giá quá cao chính là điểm yếu, ảnh hưởng đến dòng tiền của chủ đầu tư khi bước vào giai đoạn vận hành và trả lãi. Việc trả lãi cam kết tỷ lệ phần trăm dựa trên giá bán, nếu giá quá cao, lãi trả phải cao. Những biệt thự biển triệu đô khi đi vào vận hành, nếu cam kết 10%, mỗi năm trả gần 2 tỷ đồng.
Chủ đầu tư bớt tham, không đẩy giá cao, thì nhà đầu tư cũng nên bớt sự đòi hỏi phi mã về tỷ lệ trả lãi. Theo thống kê của các chủ sở hữu khách sạn trên thế giới, việc trả lãi từ 4-6% trong vòng 15 năm là con số an toàn nhất. Kể cả tỷ suất lấp đầy phòng dưới 50%, con số này vẫn không đẩy chủ đầu tư vào cảnh phá sản.

Khách sạn Quốc tế 5 sao Beau Rivage Nha Trang tọa lạc tại số 40 Trần Phú, trên cung đường biển sầm uất và nhộn nhịp. Ngoài hai khối tháp khách sạn còn có khu Thương mại – Dịch vụ - Nhà hàng – Giải trí với tổng diện tích trên 60.000m2 sẽ trở thành điểm đến hấp dẫn.

Ngoài ra, việc phóng tay đầu tư vào quảng bá dự án, chi phí bán hàng, tiếp thị… nếu không được quản trị tốt cũng ngốn không ít tiền. Nếu tỷ lệ dành cho chi phí bán hàng trước khi đi vào vận hành đạt con số trên 15%, nghĩa là chủ đầu tư phải chấp nhận đứng trên bờ vực lỗ kéo dài tối thiểu 5 năm.
Cocobay đã chọn một mô hình đúng để kích cầu du lịch cho cả địa phương nhưng lại không quản trị được lòng tham của các bên tham gia. Chưa kể, khi đi vào vận hành, đơn vị vận hành lại phải gánh thêm lãi cho các khu nhà khác trong dự án chậm tiến độ vì thay đổi công năng, lại phải đổ tiền vào quảng bá lôi kéo khách vì vị trí không hấp dẫn du lịch… Nhiều chi phí phải đầu tư mà tiền thu về báo trước sẽ cạn kiệt trong vài năm tới, việc Cocobay nhanh chóng "cắt lỗ", nhìn thẳng sự thật, chấm dứt trả lãi ngay tại thời điểm này vẫn thông minh hơn kéo dài cơn ác mộng.

Nguồn: https://diaoc.nld.com.vn/tai-chinh-bds/dinh-huong-dung-condotel-de-phat-trien-du-lich-ben-vung-20191202070816454.htm 


Kinh tế báo chí, kinh doanh báo chí làm gì trong sự thay đổi xu hướng đọc báo?

Trong sự phát triển của các mạng truyền thông xã hội, báo chí ngày càng giảm sút sự ảnh hưởng vì bất cứ ai cũng có thể đưa thông tin, tự viết thông tin. Thậm chí, nhờ có mạng xã hội, các nhà báo đỡ vất vả đi lấy thông tin hơn. 



TS, Nhà báo Trần Bá Dung - Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Nghiệp vụ Hội Nhà báo Việt Nam viết trong bài Truyền thông mới và những thách thức “chỗ đứng” của nhà báo, khẳng định vai trò làm báo của các nhà báo chứ bao giờ mờ nhạt như lúc này.  Bởi vì:

Mọi công dân đều có thể tham gia sản xuất sản phẩm báo chí (Everyone can produce)

Đây là xu hướng báo chí công dân, ngày càng phát triển. Tham gia chứ không phải quyết định. Quyền lựa chọn và quyết định là của các tòa soạn báo. Một số thông tin trên báo chí có tầm ảnh hưởng ra cả thế giới, là sản phẩm của báo chí công dân. Ở Việt Nam, không ít thông tin, hình ảnh trên báo chí, đài truyền hình, phát thanh (nhiều nhất là các video clip, bức ảnh nghiệp dư), cũng được chính người dân cung cấp.

Sức mạnh truyền tin từ các mạng xã hội là một thách thức thực tế

“Những mạng xã hội như Facebook và Twitter đang thực sự thay đổi diện mạo của báo chí. Hầu như bất kỳ phóng viên báo chí khôn ngoan nào cũng dùng Facebook hay Twitter“ (Evan Smith - Tổng Biên tập Tạp chí Texas Monthly).

Cùng với mạng xã hội là xu thế “báo chí công dân”, với sự trợ giúp và tiện ích của các thiết bị thông minh. Mọi công dân đều có thể sản xuất tin tức và truyền tải trên mạng xã hội. Đây cũng là thách thức lớn đối với “chỗ đứng” của nhà báo.

Mạng xã hội là “ngôi nhà” thứ hai, là đối tác, trợ thủ, vừa là đối thủ của báo chí

Việc sử dụng các mạng xã hội khác nhau (Google, Facebook, Twitter,...) đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống hằng ngày của phần lớn người dân. Với nhà báo, mạng xã hội không chỉ để trao đổi thông tin thông thường mà còn là công cụ hỗ trợ đắc lực trong việc tìm kiếm, kiểm chứng, chia sẻ thông tin nghề nghiệp. Đi cùng với những ưu việt, là những mối đe dọa, thách thức về chạy đua thời gian, cường độ lao động, kiểm chứng thông tin, xử lý và sử dụng thông tin, v.v..

Trong chuyến tìm hiểu một số cơ quan báo chí ở CHLB Đức, chúng tôi được biết, các nhà báo ở đây đều coi mạng xã hội là nguồn tin đầu tiên trong tác nghiệp và là kênh thông tin để trao đổi, chia sẻ với các nguồn tin. Tất nhiên, họ chỉ dùng mạng xã hội như là công cụ hỗ trợ, gợi ý, chứ không coi đó là tin tức báo chí.

Kinh doanh báo chí phải khác hơn, không chỉ trông chờ ở quảng cáo truyền thống, mà phải kiếm tiền từ chính nội dung.
Đặc biệt phải rút ngắn thời gian sản xuất tin tức. Báo chí trung ương hay địa phương, đều cần quan tâm đến đặc điểm mới của truyền thông số là Toàn cầu hóa sản phẩm - Địa phương hóa thông tin.

Tăng tính tương tác với công chúng, coi phản hồi của công chúng là một phần nội dung thông tin, dĩ nhiên phải có chọn lọc. Đề cao tính nhân văn trong hoạt động báo chí. Trong thách thức, có cơ hội và ngược lại. Nếu biết cách phân tích, chọn lọc và vận dụng, thách thức từ truyền thông số cũng chính là cơ hội bứt phá cho báo chí.




Vậy thì, khi sức mạnh về sự ảnh hưởng của báo chí đang giảm đi thì báo chí sống bằng gì?

Kinh tế báo chí - Kinh doanh báo chí

Hai cụm từ này, hiểu một cách đơn giản nghĩa là làm sao tờ báo có thể có nguồn thu về để nuôi sống bộ máy, duy trì hoạt động và phát triển. Nhưng hiểu một cách đúng đắn hơn, Truyền thông mới cho rằng phải xác định chính xác vai trò - nghĩa vụ để phân biệt. 

Kinh tế báo chí là các hoạt động kinh doanh liên quan đến báo chí, trong đó bao gồm cả hoạt động quảng cáo và những hoạt động kinh doanh truyền thống khác. 

Để phát triển Kinh tế báo chí, các tòa soạn cần có một bộ phận kinh doanh riêng biệt, nằm trên cả bộ phận quảng cáo của tòa soạn và vạch định các chiến lược nhằm phát triển về kinh tế. 
Bộ phận Kinh doanh này sẽ dựa vào tiêu chí mục đích của tờ báo, các mối quan hệ nhằm mang đến những mô hình kinh tế ổn định, bền vững và phù hợp. 

Ví dụ Báo giáo dục cần các hoạt động Kinh tế gắn liền với các hoạt động Tuyển sinh, Môi trường giáo dục, Học thêm, Đào tạo...
Báo Pháp luật cần song hành cùng các văn phòng luật sư, hỗ trợ tư vấn về pháp lý, nâng cao ý thức cộng đồng về pháp luật...

Kinh doanh báo chí: Hiểu đúng nghĩa là khai thác được gì từ các loại hình báo chí. 
Ví dụ, báo điện tử có thể bán quảng cáo bằng nhiều hình thức khác nhau như bán vị trí banner, bán qua hệ thống Google Ads, các cty agency...
Ngoài bán tin bài truyền thông như một cách quảng cáo nội dung cho các cty có nhu cầu, báo điện tử có thể bán nội dung cho các trang tin tức tổng hợp như Google News, Baomoi, VN Ngày Nay...

Dĩ nhiên, nêu chỉ dựa vào rổ hàng truyền thống thì báo chí (kể cả báo điện tử) cũng không thể nuôi sống cả bộ máy cồng kềnh. Vì vậy rất cần tinh gọn bộ máy và phát triển hệ thống Kinh doanh đa dạng, đa nguồn ngành hơn. 

Để có những chiến lược phát triển phù hợp và khách hàng đúng với tôn chỉ mục đích của tờ báo, hãy liên hệ với chúng tôi: lovesaigon1698@gmail.com 


Tiếp thị nội dung và công cuộc đổi mới liên tục


Tiếp thị nội dung và công cuộc đổi mới liên tục

Tiếp thị nội dung là phương pháp tiếp thị chiến lược nhằm tạo và phân phối nội dung có giá trị , phù hợp và nhất quán để thu hút và thu hút đối tượng được xác định rõ ràng - với mục tiêu thúc đẩy hành động của khách hàng có lợi nhuận.


Nói tóm lại, thay vì quảng cáo sản phẩm hoặc dịch vụ bạn sẽ tiếp thị nội dung hoạt động bằng cách thu hút sự chú ý của các thành viên - đối tượng mục tiêu của bạn và giúp họ giải quyết các nhu cầu thông tin và theo định hướng nhiệm vụ của họ. Niềm tin là thước đo dài lâu. Khách hàng của bạn theo thời gian sẽ tin tưởng và dựa vào hướng dẫn của bạn, nhận ra đề xuất giá trị duy nhất của công ty bạn và cuối cùng thưởng cho bạn sự kinh doanh và lòng trung thành.

  • Đối tượng mục tiêu: Để xây dựng và củng cố mối quan hệ trung thành, tin cậy giữa doanh nghiệp của bạn và người mua tiềm năng, các nỗ lực tiếp thị nội dung của bạn cần truyền đạt với các thành viên đối tượng về các điều khoản của họ và thu hút họ dựa trên lợi ích của họ - không chỉ là quan điểm và ưu tiên kinh doanh của bạn muốn hơn nữa. 
  • Cung cấp giá trị hữu hình : Tiếp thị nội dung rất có thể thành công khi nó phục vụ một nhu cầu cụ thể và phần lớn chưa được đáp ứng, như cung cấp thông tin quan trọng mà người mua có thể đang tìm kiếm, cung cấp một công cụ hoặc kỹ thuật để giúp cuộc sống của họ dễ dàng hơn hoặc hướng dẫn họ thông qua các bước của một quy trình phức tạp họ có thể gặp khó khăn khi điều hướng. 
  • Tìm sự phù hợp : Ngay cả khi bạn may mắn tìm thấy thành công lan truyền với một nỗ lực nội dung duy nhất, bạn chỉ có thể duy trì những lợi ích đó nếu nỗ lực nội dung của bạn vẫn nhất quán - có nghĩa là chúng được sản xuất trên cơ sở liên tục, được phân phối theo lịch trình đáng tin cậy và luôn phù hợp với tiêu chuẩn về chất lượng, giá trị và mục đích mà khán giả của bạn mong đợi.

Thận trọng khi sử dụng hình ảnh, biểu tượng di sản văn hóa để quảng cáo

Thời gian qua, nhiều người cảm thấy khó chịu khi chứng kiến hai tấm biển quảng cáo cỡ lớn ngoài trời của một doanh nghiệp đặt cạnh quốc lộ 1 đoạn qua thị xã Điện Bàn (Quảng Nam) vì đã sử dụng hình ảnh Chùa Cầu - biểu tượng của di sản thế giới tại Hội An để làm nền cho một lon bia Huda khổng lồ.

Chùa Cầu bị đổi màu khi xuất hiện trên biển quảng cáo ngoài trời của bia Huda

Việc khuếch đại hình ảnh sản phẩm cùng với việc “nhuộm xanh” di sản bởi mầu của thương hiệu bia đã khiến hình ảnh của di sản trên tấm biển quảng cáo trở nên méo mó, biến dạng. Ngay sau khi được đăng tải trên mạng xã hội, hình ảnh tấm biển quảng cáo nêu trên đã gây nên làn sóng phản ứng dữ dội của cộng đồng mạng. Thậm chí xuất hiện ý kiến đòi tẩy chay sản phẩm vì coi đây như một hành vi xâm hại gián tiếp di sản, cho thấy sự thiếu tôn trọng của doanh nghiệp đối với di sản.

Nhiều người đặt ra nghi vấn “Huda Huế đã được sự đồng ý của các cơ quan chức năng ở TP.Hội An chưa mà dám đổi màu sắc của biểu tượng chùa Cầu trong chiến dịch quảng cáo bia của mình như vậy?”.
Một số ý kiến phản đối cho rằng việc Huda “phủ bia” chùa Cầu như thế này là xúc phạm đến biểu tượng di sản 4 thế kỷ của Hội An cũng như xúc phạm tới di sản văn hóa thế giới, vi phạm thuần phong mỹ tục khi làm quảng cáo.

Điều đáng nói là trước đó, từ năm 2017, doanh nghiệp này cũng đã dùng hình ảnh quảng cáo thương hiệu bằng việc sử dụng các chai bia để “phủ bề mặt” cho các di tích Ngọ Môn, cầu Trường Tiền (Huế) gây bức xúc dư luận. Sau đó các hình ảnh phản cảm đã bị tháo dỡ khỏi các kênh quảng bá của doanh nghiệp, đồng thời cơ quan chức năng cũng đã kịp thời chấn chỉnh, nhắc nhở đơn vị. Lẽ ra đây phải là bài học đắt giá đối với doanh nghiệp, vậy nhưng thật khó hiểu vì sau hai năm, những sai lầm tương tự tiếp tục lặp lại. Không chỉ dùng hình ảnh di sản để quảng bá sản phẩm, vài tháng trước, thương hiệu này đã cho ra mắt bộ sản phẩm mới với phiên bản giới hạn, sử dụng tám mẫu thiết kế có sử dụng hình ảnh của các địa danh, thắng cảnh du lịch nổi tiếng của tám tỉnh miền trung bao gồm Thành nhà Hồ (Thanh Hóa), Làng Sen (Nghệ An), hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), hang Sơn Đoòng (Quảng Bình), chợ Đông Hà (Quảng Trị), điện Thái Hòa (Huế), Cầu Vàng - Bà Nà Hills (Đà Nẵng), Chùa Cầu - Hội An (Quảng Nam).

Điểm chung của các địa danh này là đều bị đổi mầu! Dù xuất phát từ mong muốn: “Khắc họa một cách sáng tạo các danh thắng trên mầu xanh trẻ trung cùng sắc vàng óng hiện đại, thương hiệu muốn khơi gợi tình yêu, niềm tự hào về vẻ đẹp quê hương trong mỗi người dân miền trung và khích lệ mong muốn khám phá Việt Nam của du khách trong nước cùng bạn bè quốc tế”, tuy nhiên nhiều người đặt câu hỏi: việc sử dụng những hình ảnh này liệu đã được sự cho phép của cơ quan có thẩm quyền? Và hậu quả sẽ ra sao nếu các doanh nghiệp trong chiến dịch quảng bá sản phẩm của mình tùy tiện sử dụng hình ảnh di sản, can thiệp thô bạo về mầu sắc, tự ý cắt ghép hình ảnh di sản? Bởi theo Khoản 1, Điều 19, Luật Quảng cáo về Yêu cầu đối với nội dung quảng cáo quy định: “Nội dung quảng cáo phải bảo đảm trung thực, chính xác, rõ ràng, không gây thiệt hại cho người sản xuất, kinh doanh và người tiếp nhận quảng cáo”.

Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó chủ tịch phụ trách UBND TP.Hội An, cho biết Công ty Carlsberg Việt Nam sử dụng hình ảnh chùa Cầu và hình một lon bia Huda để quảng bá sản phẩm không hề thông qua chính quyền địa phương. TP.Hội An đã đề nghị Sở VH-TT-DL Quảng Nam có ý kiến chính thức để có hướng xử lý theo thẩm quyền. “Việc sử dụng hình ảnh với màu sắc không đảm bảo, không đúng với bản chất của biểu tượng di sản văn hóa thế giới là sai, địa phương hoàn toàn phản đối”, ông Sơn khẳng định.

Được biết hình ảnh quảng cáo này nằm trong chiến dịch "Huda yêu miền Trung" của Carlsberg Việt Nam, Huda phát hành bộ lon có sử dụng hình ảnh của các địa danh nổi tiếng của 8 tỉnh miền Trung bao gồm Thành nhà Hồ (Thanh Hóa), Làng Sen (Nghệ An), Hồ Kẻ Gỗ (Hà Tĩnh), Hang Sơn Đoòng (Quảng Bình), chợ Đông Hà (Quảng Trị), Điện Thái Hòa (Huế), Cầu Vàng - Bà Nà Hills (Đà Nẵng), Chùa Cầu - Hội An (Quảng Nam), và các địa danh này đều đổi thành màu xanh lá cây - màu nhận diện thương hiệu của bia Huda.


Bộ lon bia Huda có sử dụng hình ảnh của các địa danh nổi tiếng

Trước sức ép của dư luận và sự vào cuộc quyết liệt của cơ quan chức năng, ngày 6-11, những tấm biển quảng cáo nêu trên đã bị tháo dỡ. Tuy nhiên từ sự việc này đã dấy lên mối lo ngại về tình trạng một số doanh nghiệp đang tự do sử dụng hình ảnh, biểu tượng của các di sản văn hóa để quảng bá cho sản phẩm của đơn vị mình nhằm mục đích thương mại mà không tính toán đến việc hình ảnh di sản có thể bị ảnh hưởng trong tâm thức của công chúng. Việc cá nhân, tổ chức sử dụng những thông tin, hình ảnh, biểu tượng của di sản nhằm phục vụ cho những mục đích cá nhân cần phải tuân thủ theo quy định của pháp luật. Đồng thời mọi hoạt động quảng cáo gắn với di sản văn hóa cần phải được kiểm soát chặt chẽ, phù hợp với pháp luật, lịch sử, văn hóa bản địa và thuần phong mỹ tục của dân tộc, bởi chỉ như vậy mới góp phần tôn vinh giá trị của di sản, vừa khơi gợi niềm tự hào dân tộc, góp phần quảng bá hiệu quả hình ảnh, đất nước, con người Việt Nam đến với bạn bè thế giới.

Vì đâu mà bảng quảng cáo của Huda vẫn được thông qua và xây dựng?

Theo ông Nguyễn Văn Sơn, trường hợp Sở VH-TT-DL Quảng Nam (đơn vị cuối cùng cho phép doanh nghiệp (doanh nghiệp) sử dụng hình ảnh chùa Cầu để quảng bá sản phẩm) cho phép thì cần phải yêu cầu thay đổi lại màu sắc cho phù hợp, có tính chân xác của chùa Cầu. “Chùa Cầu giờ đã là một phần của Hội An, di sản chung của cả nước”, ông Sơn nói.

Ông Phan Đình Đường, Phó chánh thanh tra Sở VH-TT-DL Quảng Nam, cho biết đơn vị đã nắm vụ việc Công ty Carlsberg Việt Nam sử dụng hình ảnh chùa Cầu để quảng bá sản phẩm. Giám đốc Sở VH-TT-DL cũng đã chỉ đạo Phòng Quản lý văn hóa (Sở VH-TT-DL) có văn bản gửi Công ty quảng cáo Lê Nguyễn (đóng tại TP.Đà Nẵng) yêu cầu thay đổi maquette. Tuy nhiên theo ông Đường, đến nay ngành chức năng Quảng Nam chưa nhận được trả lời và hình ảnh cũ vẫn nguyên vẹn.

Đáng chú ý, ông Đường cho biết việc lấy hình ảnh chùa Cầu để quảng cáo sản phẩm bia Huda đã được cấp phép. Phòng Quản lý văn hóa là đơn vị giám định nội dung, thống nhất và cho phép doanh nghiệp lấy hình ảnh chùa Cầu để quảng cáo. Tuy nhiên, hình ảnh quảng cáo chùa Cầu như dư luận phản ứng là không đúng với thực tế và gây phản cảm.

Trong khi đó, ông Nguyễn Thanh Hồng, Giám đốc Sở VH-TT-DL Quảng Nam, cho hay quá trình xin dựng pano quảng cáo bia Huda gắn với chùa Cầu được Phòng Quản lý văn hóa tham mưu cho một phó giám đốc Sở ký cấp phép. “Hiện anh em nghiệp vụ đang thảo luận, trao đổi với doanh nghiệp có thể chọn hình ảnh khác phù hợp để thay thế maquette trên, miễn sao phù hợp với văn hóa Quảng Nam, đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp và đảm bảo giá trị quảng bá cho sản phẩm”, ông Hồng nói. Sau khi dư luận có ý kiến, ông Hồng cho biết đã ký văn bản yêu cầu thu hồi tấm pano nhưng đơn vị làm quảng cáo (Công ty quảng cáo Lê Nguyễn) đã “kéo rê”, không chịu thực hiện. Hiện Sở đã chỉ đạo tạm thời tháo dỡ tấm pano, công việc đang được triển khai.

Trước câu hỏi Sở VH-TT-DL Quảng Nam đã cấp phép lại yêu cầu thu hồi, tháo dỡ liệu có bị doanh nghiệp đòi bồi thường, ông Tôn Thất Hướng, Trưởng phòng Quản lý văn hóa, nói: “Khi nào doanh nghiệp có ý kiến thì hay, chứ bây giờ họ cũng chưa có ý kiến gì”. Cũng theo ông Hướng, khi muốn bồi thường một cái gì đó (ra quyết định trái với quy định pháp luật, bị kiện) thì phải ra tòa dân sự và do tòa phán quyết.

Ngoài bảng quảng cáo sử dụng hình ảnh chùa Cầu được đặt ở Quảng Nam, thì Huda còn sử dụng hình ảnh cầu Trung Đạo (Di sản văn hóa thế giới thuộc quần thể kiến trúc Cố đô Huế) để cho lên biển quảng cáo

Billboard quảng cáo trên đường An Dương Vương - TP.Huế sử dụng hình ảnh cầu Trung Đạo

Bia và những tham vọng “phủ” bia lên cầu Trường Tiền, Ngọ Môn và bị phản đối

Liên quan đến pano quảng cáo có biểu tượng chùa Cầu (Hội An), trước đó vào tháng 6/2017, Carlsberg Việt Nam đã sử dụng hình ảnh di tích ở Huế như cầu Trường Tiền, Ngọ Môn... để quảng cáo cho bia. Phía trước Ngọ Môn của Huế được phủ kín một lớp chai bia, lon bia xanh ngắt. Hoặc, thay cho các chân cầu, cầu Trường Tiền cũng được "đắp" bởi hàng loạt chai bia khổng lồ. Hình ảnh trên theo nhiều người nhận định là rất phản cảm, bị dư luận tại Thừa Thiên Huế phản đối.


Ở góc độ pháp luật, như nhận định của cơ quan chức năng, quảng cáo này vi phạm điều 3, khoản 8 của Luật quảng cáo (thiếu thẩm mỹ, trái với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam). Còn về góc độ cảm tính, dù là một công dân tại Huế hay bất cứ địa phương nào, tất nhiên chẳng ai vui khi thấy một Di sản Thế giới tại Việt Nam lại được "phủ kín" bằng thứ đồ uống có cồn như vậy. Và sau đó Huda cũng đã phải gỡ bỏ những hình ảnh quảng cáo trên.

Lưu ý cho doanh nghiệp khi muốn sử dụng hình ảnh của biểu tượng, di sản văn hóa vào quảng cáo
Bà Lê Thị Thu Hiền, Cục trưởng Cục Di sản văn hóa (Bộ VH-TT-DL), cho rằng nội dung quảng cáo cần tuân thủ theo sự điều chỉnh của luật Quảng cáo và các quy định liên quan. Tuy nhiên, việc xây dựng nội dung quảng cáo có gắn với di sản văn hóa cần phải được nghiên cứu thấu đáo, cẩn trọng trên tinh thần tôn vinh được giá trị di sản và tôn trọng ý nguyện của cộng đồng sở hữu di sản đó. Mặt khác, Cục Di sản văn hóa cũng trích dẫn luật Di sản văn hóa tại khoản 1 điều 13 và các văn bản liên quan quy định về việc tuyên truyền, giới thiệu sai lệch về nội dung và giá trị của di tích. “Vì vậy, Cục Di sản văn hóa lưu ý các tổ chức, cá nhân trong việc xây dựng nội dung quảng cáo có gắn với di sản văn hóa cần thận trọng để vừa đảm bảo tuân thủ pháp luật, vừa đảm bảo phù hợp với truyền thống lịch sử, văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục của người Việt Nam”, bà Hiền nhấn mạnh.

Trong khi đó, bà Ninh Thị Thu Hương, Cục trưởng Cục Văn hóa cơ sở (Bộ VH-TT-DL), cho rằng: “Sở VH-TT-DL Quảng Nam là đơn vị có thẩm quyền kiểm tra, điều chỉnh nếu tấm quảng cáo đó không phù hợp với chủ trương cho phép dùng biểu tượng của địa phương”. Theo bà Hương, để thể hiện trên tấm bảng lớn ngoài trời thì các sở VH-TT-DL có nhiệm vụ thẩm định nội dung. “Cần phải tăng cường, nâng cao năng lực và trách nhiệm của các cơ quan cấp phép ở địa phương. Họ cần cẩn trọng hơn khi duyệt các nội dung quảng cáo để tránh thiệt hại cho doanh nghiệp khi treo quảng cáo lên rồi lại phải rút”, bà Hương nói. Về phần doanh nghiệp, bà Hương cho rằng việc quảng cáo bia liên tục bị phản đối cho thấy doanh nghiệp cần cẩn trọng hơn trong việc quảng cáo.

Nguồn: baonhandan, brandsvietnam




Luật tiếp cận thông tin - 14 loại thông tin công dân được công khai tiếp cận

Luật Tiếp cận thông tin 2016 có hiệu lực từ ngày 1/7 quy định công dân không được tiếp cận những thông tin sau:

- Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật. Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này.

- Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.



Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện 

- Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.

- Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.

14 loại thông tin công khai

Điều 17 của luật này quy định các loại thông tin phải được công khai gồm:

- Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước.

 - Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước.

- Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; nội dung và kết quả trưng cầu, tiếp thu ý kiến của nhân dân; đề án và dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính;

- Chiến lược, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương; quy hoạch ngành, lĩnh vực và phương thức, kết quả thực hiện; chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan nhà nước.

- Dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; thủ tục ngân sách nhà nước.

- Thông tin về phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn viện trợ phi chính phủ theo quy định; thông tin về quản lý, sử dụng các khoản cứu trợ, trợ cấp xã hội; quản lý, sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân, các loại quỹ.

- Danh mục dự án, chương trình đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công; thông tin về đấu thầu; thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất; phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn.

- Hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; báo cáo đánh giá kết quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp; báo cáo giám sát tình hình thực hiện công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu; thông tin về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.

- Thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường; kết luận kiểm tra, thanh tra, giám sát liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sức khỏe của cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động.

- Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan và của đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các công việc của nhân dân; nội quy, quy chế do cơ quan nhà nước ban hành.

- Báo cáo công tác định kỳ; báo cáo tài chính năm; thông tin thống kê về ngành, lĩnh vực quản lý; cơ sở dữ liệu quốc gia ngành, lĩnh vực; thông tin về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học;

- Tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của cơ quan nhà nước hoặc người làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin;

- Thông tin liên quan đến lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng;

- Thông tin về thuế, phí, lệ phí;

- Thông tin khác phải được công khai theo quy định của pháp luật.

Người dân tiếp cận thông tin bằng cách nào?

Điều 10 luật này quy định công dân được tiếp cận thông tin bằng hai cách: tự do với thông tin được công khai hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp.

Với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay thì người yêu cầu cung cấp thông tin được trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc yêu cầu cung cấp ngay bản sao, bản chụp tài liệu.

Với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo cho người yêu cầu đến trụ sở để đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc nhận bản sao...

QUỐC HỘI
--------
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
Luật số: 104/2016/QH13
Hà Nội, ngày 06 tháng 4 năm 2016

LUẬT
TIẾP CẬN THÔNG TIN
Căn cứ Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;
Quốc hội ban hành Luật tiếp cận thông tin.
Chương I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh
Luật này quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân, nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện quyền tiếp cận thông tin, trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Thông tin là tin, dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ, băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan nhà nước tạo ra.
2. Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu hoặc xác nhận bằng văn bản.
3. Tiếp cận thông tin là việc đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp thông tin.
4. Cung cấp thông tin bao gồm việc cơ quan nhà nước công khai thông tin và cung cấp thông tin theo yêu cầu của công dân.
Điều 3. Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin
1. Mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
2. Thông tin được cung cấp phải chính xác, đầy đủ.
3. Việc cung cấp thông tin phải kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân; đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật.
4. Việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng.
5. Việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác.
6. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Điều 4. Chủ thể thực hiện quyền tiếp cận thông tin
1. Công dân thực hiện quyền tiếp cận thông tin theo quy định của Luật này.
2. Người mất năng lực hành vi dân sự thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật.
Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người giám hộ.
3. Người dưới 18 tuổi yêu cầu cung cấp thông tin thông qua người đại diện theo pháp luật, trừ trường hợp luật về trẻ em và luật khác có quy định khác.
Điều 5. Thông tin công dân được tiếp cận
Công dân được tiếp cận thông tin của cơ quan nhà nước, trừ thông tin không được tiếp cận quy định tại Điều 6 của Luật này; được tiếp cận có điều kiện đối với thông tin quy định tại Điều 7 của Luật này.
Điều 6. Thông tin công dân không được tiếp cận
1. Thông tin thuộc bí mật nhà nước, bao gồm những thông tin có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ và các lĩnh vực khác theo quy định của luật.
Khi thông tin thuộc bí mật nhà nước được giải mật thì công dân được tiếp cận theo quy định của Luật này.
2. Thông tin mà nếu để tiếp cận sẽ gây nguy hại đến lợi ích của Nhà nước, ảnh hưởng xấu đến quốc phòng, an ninh quốc gia, quan hệ quốc tế, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; gây nguy hại đến tính mạng, cuộc sống hoặc tài sản của người khác; thông tin thuộc bí mật công tác; thông tin về cuộc họp nội bộ của cơ quan nhà nước; tài liệu do cơ quan nhà nước soạn thảo cho công việc nội bộ.
Điều 7. Thông tin công dân được tiếp cận có điều kiện
1. Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh được tiếp cận trong trường hợp chủ sở hữu bí mật kinh doanh đó đồng ý.
2. Thông tin liên quan đến bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân được tiếp cận trong trường hợp được người đó đồng ý; thông tin liên quan đến bí mật gia đình được tiếp cận trong trường hợp được các thành viên gia đình đồng ý.
3. Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, người đứng đầu cơ quan nhà nước quyết định việc cung cấp thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong trường hợp cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng theo quy định của luật có liên quan mà không cần có sự đồng ý theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
Điều 8. Quyền và nghĩa vụ của công dân trong việc tiếp cận thông tin
1. Công dân có quyền:
a) Được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời;
b) Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.
2. Công dân có nghĩa vụ:
a) Tuân thủ quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin;
b) Không làm sai lệch nội dung thông tin đã được cung cấp;
c) Không xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác khi thực hiện quyền tiếp cận thông tin.
Điều 9. Phạm vi và trách nhiệm cung cấp thông tin
1. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định.
Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp thông tin do mình tạo ra và thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, trừ trường hợp quy định tại Điều 6 của Luật này; đối với trường hợp quy định tại Điều 7 của Luật này thì cung cấp thông tin khi có đủ điều kiện theo quy định.
2. Cơ quan nhà nước trực tiếp tổ chức thực hiện việc cung cấp thông tin, trừ các trường hợp sau đây:
a) Văn phòng Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Quốc hội, cơ quan của Quốc hội, cơ quan thuộc Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng bầu cử quốc gia tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
b) Văn phòng Chủ tịch nước có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chủ tịch nước tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
c) Văn phòng Chính phủ có trách nhiệm cung cấp thông tin do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
d) Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm cung cấp thông tin do Đoàn đại biểu Quốc hội tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
đ) Văn phòng Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
e) Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm cung cấp thông tin do Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
g) Văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm cung cấp thông tin do Hội đồng nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, các cơ quan của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện tạo ra và thông tin do mình tạo ra;
h) Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm cung cấp cho công dân cư trú trên địa bàn thông tin do mình và do các cơ quan ở cấp mình tạo ra, thông tin do mình nhận được để trực tiếp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn; cung cấp cho công dân khác thông tin này trong trường hợp liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ;
i) Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an quy định đầu mối thực hiện cung cấp thông tin trong hệ thống tổ chức của mình.
Điều 10. Cách thức tiếp cận thông tin
Công dân được tiếp cận thông tin bằng các cách thức sau:
1. Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công khai;
2. Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin.
Điều 11. Các hành vi bị nghiêm cấm
1. Cố ý cung cấp thông tin sai lệch, không đầy đủ, trì hoãn việc cung cấp thông tin; hủy hoại thông tin; làm giả thông tin.
2. Cung cấp hoặc sử dụng thông tin để chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phá hoại chính sách đoàn kết, kích động bạo lực.
3. Cung cấp hoặc sử dụng thông tin nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín, gây kỳ thị về giới, gây thiệt hại về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
4. Cản trở, đe dọa, trù dập người yêu cầu, người cung cấp thông tin.
Điều 12. Chi phí tiếp cận thông tin
1. Công dân được cung cấp thông tin không phải trả phí, lệ phí, trừ trường hợp luật khác có quy định.
2. Người yêu cầu cung cấp thông tin phải trả chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin.
Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định chi Tiết khoản này.
Điều 13. Giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin
1. Quốc hội giám sát tối cao việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân.
2. Hội đồng nhân dân giám sát việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân ở địa phương; định kỳ hằng năm, xem xét báo cáo của Ủy ban nhân dân cùng cấp về tình hình thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân trên địa bàn.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên có trách nhiệm giám sát xã hội việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân.
Điều 14. Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo
1. Người yêu cầu cung cấp thông tin có quyền khiếu nại, khởi kiện đối với cơ quan nhà nước, người có trách nhiệm cung cấp thông tin quy định tại Điều 9 của Luật này.
2. Công dân có quyền tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin.
3. Khiếu nại, khởi kiện, tố cáo trong việc tiếp cận thông tin được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và pháp luật về tố tụng hành chính.
Điều 15. Xử lý vi phạm
1. Người nào có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử lý vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
2. Người cung cấp thông tin có một trong các hành vi quy định tại Điều 11 của Luật này mà gây thiệt hại thì cơ quan nhà nước cung cấp thông tin phải bồi thường thiệt hại, cá nhân có hành vi vi phạm có trách nhiệm hoàn trả theo quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.
3. Người thực hiện quyền tiếp cận thông tin sử dụng thông tin được cung cấp gây ảnh hưởng xấu đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức hoặc của người khác thì phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Điều 16. Áp dụng pháp luật về tiếp cận thông tin
Luật này áp dụng chung cho việc tiếp cận thông tin của công dân. Trường hợp luật khác có quy định về việc tiếp cận thông tin mà không trái với quy định tại Điều 3 của Luật này thì được thực hiện theo quy định của luật đó.
Chương II
CÔNG KHAI THÔNG TIN
Điều 17. Thông tin phải được công khai
1. Các thông tin sau đây phải được công khai rộng rãi:
a) Văn bản quy phạm pháp luật; văn bản hành chính có giá trị áp dụng chung; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước;
b) Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước;
c) Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của pháp luật về ban hành văn bản quy phạm pháp luật; nội dung và kết quả trưng cầu ý dân, tiếp thu ý kiến của Nhân dân đối với những vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định của cơ quan nhà nước mà đưa ra lấy ý kiến Nhân dân theo quy định của pháp luật; đề án và dự thảo đề án thành lập, giải thể, nhập, chia đơn vị hành chính, điều chỉnh địa giới hành chính;
d) Chiến lược, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương; quy hoạch ngành, lĩnh vực và phương thức, kết quả thực hiện; chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan nhà nước;
đ) Thông tin về dự toán ngân sách nhà nước; báo cáo tình hình thực hiện ngân sách nhà nước; quyết toán ngân sách nhà nước; dự toán, tình hình thực hiện, quyết toán ngân sách đối với các chương trình, dự án đầu tư xây dựng cơ bản sử dụng vốn ngân sách nhà nước; thủ tục ngân sách nhà nước;
e) Thông tin về phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức và nguồn viện trợ phi chính phủ theo quy định; thông tin về quản lý, sử dụng các khoản cứu trợ, trợ cấp xã hội; quản lý, sử dụng các khoản đóng góp của Nhân dân, các loại quỹ;
g) Thông tin về danh mục dự án, chương trình đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, tình hình và kết quả thực hiện kế hoạch, chương trình, dự án đầu tư công; thông tin về đấu thầu; thông tin về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; giá đất; thu hồi đất; phương án bồi thường, giải phóng mặt bằng, tái định cư liên quan đến dự án, công trình trên địa bàn;
h) Thông tin về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp; báo cáo đánh giá kết quả hoạt động và xếp loại doanh nghiệp; báo cáo giám sát tình hình thực hiện công khai thông tin tài chính của doanh nghiệp và cơ quan nhà nước đại diện chủ sở hữu; thông tin về tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp nhà nước;
i) Thông tin về sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có tác động tiêu cực đến sức khỏe, môi trường; kết luận kiểm tra, thanh tra, giám sát liên quan đến việc bảo vệ môi trường, sức khỏe của cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động;
k) Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan và của đơn vị trực thuộc; nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết các công việc của Nhân dân; nội quy, quy chế do cơ quan nhà nước ban hành;
l) Báo cáo công tác định kỳ; báo cáo tài chính năm; thông tin thống kê về ngành, lĩnh vực quản lý; cơ sở dữ liệu quốc gia ngành, lĩnh vực; thông tin về tuyển dụng, sử dụng, quản lý cán bộ, công chức, viên chức; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học;
m) Danh mục thông tin phải công khai theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 34 của Luật này; tên, địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của cơ quan nhà nước hoặc người làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin;
n) Thông tin liên quan đến lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng;
o) Thông tin về thuế, phí, lệ phí;
p) Thông tin khác phải được công khai theo quy định của pháp luật.
2. Ngoài thông tin quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước chủ động công khai thông tin khác do mình tạo ra hoặc nắm giữ.
Điều 18. Hình thức, thời điểm công khai thông tin
1. Các hình thức công khai thông tin bao gồm:
a) Đăng tải trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước;
b) Công khai trên phương tiện thông tin đại chúng;
c) Đăng Công báo;
d) Niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước và các địa điểm khác;
đ) Thông qua việc tiếp công dân, họp báo, thông cáo báo chí, hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước theo quy định của pháp luật;
e) Các hình thức khác thuận lợi cho công dân do cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin xác định.
2. Trường hợp pháp luật có quy định về hình thức công khai đối với thông tin cụ thể thì áp dụng quy định đó.
Trường hợp pháp luật không quy định cụ thể hình thức công khai thông tin thì căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin có thể lựa chọn một hoặc một số hình thức công khai thông tin quy định tại khoản 1 Điều này bảo đảm để công dân tiếp cận được thông tin.
3. Đối với đối tượng là người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núivùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, ngoài các hình thức quy định tại khoản 1 Điều này, cơ quan nhà nước xác định hình thức công khai thông tin phù hợp với khả năng, điều kiện tiếp cận thông tin của công dân.
4. Thời điểm công khai thông tin đối với từng lĩnh vực được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan; trường hợp pháp luật chưa có quy định thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày tạo ra thông tin, cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải công khai thông tin.
Điều 19. Công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử
1. Trong các thông tin quy định tại Điều 17 của Luật này, các thông tin sau đây phải được công khai trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử:
a) Văn bản quy phạm pháp luật; điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là một bên; thủ tục hành chính, quy trình giải quyết công việc của cơ quan nhà nước;
b) Thông tin phổ biến, hướng dẫn thực hiện pháp luật, chế độ, chính sách đối với những lĩnh vực thuộc phạm vi quản lý của cơ quan nhà nước;
c) Chiến lược, chương trình, dự án, đề án, kế hoạch, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, địa phương; quy hoạch ngành, lĩnh vực và phương thức, kết quả thực hiện; chương trình, kế hoạch công tác hằng năm của cơ quan nhà nước;
d) Thông tin về danh mục dự án, chương trình và kết quả thực hiện đầu tư công, mua sắm công và quản lý, sử dụng vốn đầu tư công, các nguồn vốn vay;
đ) Thông tin về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức, sơ đồ tổ chức của cơ quan và của đơn vị trực thuộc; địa chỉ, số điện thoại, số fax, địa chỉ thư điện tử của cơ quan nhà nước, người làm đầu mối tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin;
e) Báo cáo tài chính năm; thông tin thống kê về ngành, lĩnh vực quản lý; thông tin về danh mục và kết quả chương trình, đề tài khoa học;
g) Danh mục thông tin phải được công khai, trong đó phải nêu rõ địa chỉ, hình thức, thời điểm, thời hạn công khai đối với từng loại thông tin;
h) Các thông tin nếu xét thấy cần thiết vì lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng;
i) Các thông tin khác mà pháp luật quy định phải đăng trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử.
2. Việc công khai thông tin trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử tại các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được thực hiện theo kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
3. Các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin theo quy định tại Luật này có trách nhiệm lưu giữ hồ sơ, tài liệu đã được nhập vào danh mục và phải xếp loại theo cách thức, hình thức tạo thuận lợi cho việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân; bảo đảm thông tin có thể được lưu trữ điện tử, phải được số hóa trong một thời hạn thích hợp và được để mở cho mọi người tiếp cận; đồng thời, phải kết nối với mạng điện tử trên toàn quốc để có thể truy cập dễ dàng từ các hệ thống khác nhau.
4. Cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước phải được liên kết, tích hợp với cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử của cơ quan trực thuộc để cập nhật thông tin, tạo thuận lợi cho công dân trong việc tìm kiếm, khai thác thông tin.
5. Ngoài các thông tin quy định tại khoản 1 Điều này, căn cứ vào điều kiện thực tế, cơ quan nhà nước chủ động đăng tải thông tin khác do mình tạo ra trên trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử.
6. Trường hợp cơ quan nhà nước chưa có cổng thông tin điện tử và trang thông tin điện tử, căn cứ vào điều kiện thực tế, có trách nhiệm công khai thông tin quy định tại khoản 1 Điều này bằng hình thức thích hợp khác.
Điều 20. Công khai thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng
1. Cơ quan nhà nước cung cấp thông tin có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời cho cơ quan thông tin đại chúng những thông tin theo quy định của pháp luật phải được công khai trên phương tiện thông tin đại chúng.
2. Việc đăng, phát thông tin trên báo chí thực hiện theo quy định của pháp luật về báo chí. Khi đăng, phát thông tin, cơ quan thông tin đại chúng phải bảo đảm tính đầy đủ, chính xác, kịp thời của thông tin.
Điều 21. Đăng Công báo, niêm yết
1. Việc công khai thông tin bằng hình thức đăng Công báo, niêm yết được thực hiện theo quy định của pháp luật.
2. Đối với những thông tin được công khai bằng hình thức niêm yết mà pháp luật chưa quy định cụ thể về địa điểm, thời hạn niêm yết thì phải được niêm yết tại trụ sở cơ quan nhà nước hoặc địa điểm sinh hoạt cộng đồng trong thời hạn ít nhất là 30 ngày.
Điều 22. Xử lý thông tin công khai không chính xác
1. Trường hợp phát hiện thông tin do mình tạo ra và đã được công khai không chính xác thì cơ quan đó có trách nhiệm kịp thời đính chính, công khai thông tin đã được đính chính.
2. Trường hợp phát hiện thông tin do cơ quan khác tạo ra nhưng do mình công khai không chính xác thì cơ quan đã công khai thông tin có trách nhiệm kịp thời đính chính, công khai thông tin đã được đính chính.
3. Trường hợp phát hiện thông tin do mình tạo ra nhưng được cơ quan khác công khai không chính xác thì cơ quan tạo ra thông tin có trách nhiệm yêu cầu cơ quan đã công khai thông tin kịp thời đính chính, công khai thông tin đã được đính chính.
4. Trường hợp công dân cho rằng thông tin công khai không chính xác thì kiến nghị với cơ quan đã công khai thông tin đó. Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được kiến nghị, cơ quan đó có trách nhiệm kiểm tra tính chính xác của thông tin và trả lời cho công dân; trường hợp xác định thông tin công khai không chính xác thì phải kịp thời đính chính, công khai thông tin đã được đính chính.
5. Thông tin công khai không chính xác bằng hình thức nào thì phải được đính chính bằng hình thức đó.
Chương III
CUNG CẤP THÔNG TIN THEO YÊU CẦU
Mục 1. QUY ĐỊNH CHUNG VỀ CUNG CẤP THÔNG TIN THEO YÊU CẦU
Điều 23. Thông tin được cung cấp theo yêu cầu
1. Những thông tin phải được công khai theo quy định tại Điều 17 của Luật này, nhưng thuộc trường hợp sau đây:
a) Thông tin trong thời hạn công khai nhưng chưa được công khai;
b) Thông tin hết thời hạn công khai theo quy định của pháp luật;
c) Thông tin đang được công khai nhưng vì lý do bất khả kháng người yêu cầu không thể tiếp cận được.
2. Thông tin liên quan đến bí mật kinh doanh, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đủ điều kiện cung cấp theo quy định tại Điều 7 của Luật này.
3. Thông tin liên quan đến đời sống, sinh hoạt, sản xuất, kinh doanh của người yêu cầu cung cấp thông tin nhưng không thuộc loại thông tin quy định tại Điều 17 của Luật này và khoản 2 Điều này.
4. Ngoài thông tin quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này, căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn, điều kiện và khả năng thực tế của mình, cơ quan nhà nước có thể cung cấp thông tin khác do mình tạo ra hoặc nắm giữ.
Điều 24. Hình thức yêu cầu cung cấp thông tin
1. Người yêu cầu có thể yêu cầu cung cấp thông tin bằng các hình thức sau đây:
a) Trực tiếp hoặc ủy quyền cho người khác đến trụ sở của cơ quan nhà nước yêu cầu cung cấp thông tin.
Người tiếp nhận yêu cầu có trách nhiệm hướng dẫn người yêu cầu điền các nội dung quy định tại khoản 2 Điều này vào Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin.
Trường hợp người yêu cầu cung cấp thông tin không biết chữ hoặc bị khuyết tật không thể viết yêu cầu thì người tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin có trách nhiệm giúp điền các nội dung vào Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin;
b) Gửi Phiếu yêu cầu qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax đến cơ quan cung cấp thông tin.
2. Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin phải được thể hiện bằng tiếng Việt gồm các nội dung chính sau đây:
a) Họ, tên; nơi cư trú, địa chỉ; số chứng minh nhân dân, thẻ căn cước công dân hoặc số hộ chiếu của người yêu cầu; số fax, điện thoại, địa chỉ thư điện tử (nếu có);
b) Thông tin được yêu cầu cung cấp, trong đó chỉ rõ tên văn bản, hồ sơ, tài liệu;
c) Hình thức cung cấp thông tin;
d) Lý do, mục đích yêu cầu cung cấp thông tin.
3. Trường hợp yêu cầu cung cấp thông tin quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 7 của Luật này thì phải kèm theo văn bản đồng ý của cá nhân, tổ chức liên quan.
4. Chính phủ quy định mẫu Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin.
Điều 25. Hình thức cung cấp thông tin theo yêu cầu
1. Việc cung cấp thông tin theo yêu cầu được thực hiện bằng một trong các hình thức sau đây:
a) Trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin;
b) Qua mạng điện tử, dịch vụ bưu chính, fax.
2. Cơ quan nhà nước được yêu cầu có trách nhiệm cung cấp thông tin theo hình thức mà người yêu cầu đề nghị phù hợp với tính chất của thông tin được yêu cầu cung cấp và khả năng của cơ quan, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
Điều 26. Tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin
1. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu cung cấp thông tin và vào Sổ theo dõi cung cấp thông tin theo yêu cầu.
2. Trường hợp Phiếu yêu cầu cung cấp thông tin chưa đầy đủ, chưa rõ ràng các nội dung quy định tại khoản 2 Điều 24 của Luật này, cơ quan cung cấp thông tin có trách nhiệm hướng dẫn người yêu cầu bổ sung.
3. Trường hợp thông tin được yêu cầu không thuộc trách nhiệm cung cấp thì cơ quan nhận được yêu cầu phải thông báo và hướng dẫn người yêu cầu đến cơ quan có trách nhiệm cung cấp thông tin.
Điều 27. Giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin
Khi nhận được yêu cầu cung cấp thông tin hợp lệ, cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin thông báo về thời hạn, địa điểm, hình thức cung cấp thông tin; chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin qua dịch vụ bưu chính, fax (nếu có) và phương thức, thời hạn thanh toán; thực hiện việc cung cấp thông tin theo trình tự, thủ tục quy định tại Chương này.
Điều 28. Từ chối yêu cầu cung cấp thông tin
1. Cơ quan nhà nước từ chối cung cấp thông tin trong các trường hợp sau đây:
a) Thông tin quy định tại Điều 6 của Luật này; thông tin không đáp ứng điều kiện quy định tại Điều 7 của Luật này;
b) Thông tin được công khai theo quy định tại Điều 17 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 23 của Luật này;
c) Thông tin được yêu cầu không thuộc trách nhiệm cung cấp;
d) Thông tin đã được cung cấp hai lần cho chính người yêu cầu, trừ trường hợp người yêu cầu có lý do chính đáng;
đ) Thông tin được yêu cầu vượt quá khả năng đáp ứng hoặc làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan;
e) Người yêu cầu cung cấp thông tin không thanh toán chi phí thực tế để in, sao, chụp, gửi thông tin qua dịch vụ bưu chính, fax.
2. Trường hợp từ chối cung cấp thông tin, cơ quan nhà nước phải thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Mục 2. TRÌNH TỰ, THỦ TỤC CUNG CẤP THÔNG TIN THEO YÊU CẦU
Điều 29. Trình tự, thủ tục cung cấp thông tin trực tiếp tại trụ sở cơ quan cung cấp thông tin
1. Đối với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay thì người yêu cầu cung cấp thông tin được trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc yêu cầu cung cấp ngay bản sao, bản chụp tài liệu.
2. Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 10 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo cho người yêu cầu đến trụ sở để đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu hoặc nhận bản sao, bản chụp tài liệu hoặc có văn bản thông báo về việc từ chối cung cấp thông tin.
Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 10 ngày làm việc và phải có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.
Điều 30. Trình tự, thủ tục cung cấp thông tin qua mạng điện tử
1. Việc cung cấp thông tin qua mạng điện tử được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Thông tin được yêu cầu phải là thông tin thuộc tập tin có sẵn và có thể truyền tải qua mạng điện tử;
b) Cơ quan nhà nước có đủ điều kiện về kỹ thuật để cung cấp thông tin được yêu cầu qua mạng điện tử.
2. Việc cung cấp thông tin qua mạng điện tử được thực hiện bằng các cách thức sau đây:
a) Gửi tập tin đính kèm thư điện tử;
b) Cung cấp mã truy cập một lần;
c) Chỉ dẫn địa chỉ truy cập để tải thông tin.
3. Đối với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay thì chậm nhất là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin.
4. Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo bằng văn bản về thời hạn giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin. Chậm nhất là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin hoặc có văn bản thông báo từ chối cung cấp thông tin.
Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 15 ngày và phải có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.
Điều 31. Trình tự, thủ tục cung cấp thông tin qua dịch vụ bưu chính, fax
1. Đối với thông tin đơn giản, có sẵn có thể cung cấp ngay thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin.
2. Đối với thông tin phức tạp, không có sẵn mà cần tập hợp từ các bộ phận của cơ quan đó hoặc thông tin cần thiết phải có ý kiến của cơ quan, tổ chức, đơn vị khác thì chậm nhất là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải thông báo bằng văn bản về thời hạn giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin. Chậm nhất là 15 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu hợp lệ, cơ quan được yêu cầu phải cung cấp thông tin hoặc có văn bản thông báo từ chối cung cấp thông tin.
Trường hợp cơ quan được yêu cầu cần thêm thời gian để xem xét, tìm kiếm, tập hợp, sao chép, giải quyết yêu cầu cung cấp thông tin thì có thể gia hạn nhưng tối đa không quá 15 ngày và phải có văn bản thông báo về việc gia hạn trong thời hạn cung cấp thông tin.
Điều 32. Xử lý thông tin cung cấp theo yêu cầu không chính xác
1. Trường hợp phát hiện thông tin do mình cung cấp không chính xác thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện, cơ quan nhà nước có trách nhiệm đính chính và cung cấp lại thông tin, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
2. Trường hợp người yêu cầu cung cấp thông tin cho rằng thông tin được cung cấp là không chính xác thì có quyền yêu cầu cơ quan đã cung cấp thông tin cung cấp lại thông tin chính xác.
Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan đã cung cấp thông tin có trách nhiệm xác định tính chính xác của thông tin và trả lời cho người yêu cầu; nếu thông tin đã cung cấp không chính xác thì phải đính chính và cung cấp lại thông tin, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều này.
3. Trường hợp Ủy ban nhân dân cấp xã không thể xác định được tính chính xác của thông tin do mình nắm giữ thì chậm nhất là 05 ngày làm việc kể từ ngày phát hiện hoặc nhận được đề nghị của người yêu cầu cung cấp thông tin, Ủy ban nhân dân cấp xã phải đề nghị cơ quan tạo ra thông tin xem xét. Chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày nhận được đề nghị, cơ quan tạo ra thông tin phải xác định tính chính xác của thông tin và trả lời cho Ủy ban nhân dân cấp xã; nếu thông tin đã cung cấp không chính xác thì phải gửi kèm theo thông tin chính xác.
Chậm nhất là 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được trả lời, Ủy ban nhân dân cấp xã phải đính chính lại thông tin hoặc thông báo cho người yêu cầu cung cấp thông tin biết.
Chương IV
TRÁCH NHIỆM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN CỦA CÔNG DÂN
Điều 33. Biện pháp bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân
1. Bồi dưỡng nâng cao năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ cho người được giao nhiệm vụ cung cấp thông tin trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân.
2. Vận hành cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử; xây dựng, vận hành cơ sở dữ liệu thông tin mà cơ quan có trách nhiệm cung cấp theo quy định của Chính phủ.
3. Tăng cường cung cấp thông tin thông qua hoạt động của người phát ngôn của cơ quan nhà nước và phương tiện thông tin đại chúng.
4. Xác định đơn vị, cá nhân làm đầu mối cung cấp thông tin.
5. Bố trí hợp lý nơi tiếp công dân để cung cấp thông tin phù hợp với điều kiện của từng cơ quan.
6. Củng cố, kiện toàn công tác văn thư, lưu trữ, thống kê; trang bị phương tiện kỹ thuật, công nghệ thông tin và điều kiện cần thiết khác để người yêu cầu có thể trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu tại trụ sở cơ quan nhà nước và qua mạng điện tử.
Điều 34. Trách nhiệm của cơ quan cung cấp thông tin trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin
1. Cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp thông tin quy định tại Điều 9 của Luật này có trách nhiệm:
a) Công khai, cung cấp thông tin một cách kịp thời, chính xác, đầy đủ; trong trường hợp phát hiện thông tin đã cung cấp không chính xác hoặc không đầy đủ thì phải đính chính hoặc cung cấp bổ sung thông tin;
b) Chủ động lập, cập nhật, công khai Danh mục thông tin phải được công khai và đăng tải Danh mục trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử; thường xuyên cập nhật và công khai thông tin theo đúng thời điểm, thời hạn và hình thức theo Danh mục thông tin phải được công khai;
c) Duy trì, lưu giữ, cập nhật cơ sở dữ liệu thông tin có trách nhiệm cung cấp, bảo đảm thông tin có hệ thống, đầy đủ, toàn diện, kịp thời, dễ dàng tra cứu;
d) Bảo đảm tính chính xác, đầy đủ của thông tin. Việc chuyển giao thông tin giữa các hệ thống dữ liệu được thực hiện theo quy định của pháp luật;
đ) Hướng dẫn kỹ thuật các biện pháp và quy trình bảo vệ thông tin và bảo vệ các hệ thống quản lý thông tin;
e) Rà soát, phân loại, kiểm tra và bảo đảm tính bí mật của thông tin trước khi cung cấp;
g) Kịp thời xem xét, cân nhắc lợi ích của việc cung cấp thông tin để công khai thông tin hoặc cung cấp thông tin theo yêu cầu nhằm bảo đảm lợi ích công cộng, sức khỏe của cộng đồng;
h) Ban hành và công bố công khai quy chế nội bộ về tổ chức cung cấp thông tin thuộc phạm vi trách nhiệm của mình, gồm các nội dung chính sau đây: xác định đầu mối cung cấp thông tin; việc chuyển giao thông tin của đơn vị tạo ra cho đơn vị đầu mối cung cấp thông tin; việc phân loại thông tin được cung cấp và không được cung cấp; cập nhật thông tin được công khai, thông tin được cung cấp theo yêu cầu; trình tự, thủ tục xử lý yêu cầu cung cấp thông tin giữa đơn vị đầu mối với đơn vị phụ trách cơ sở dữ liệu thông tin và các đơn vị có liên quan;
i) Rà soát các quy định của pháp luật về tiếp cận thông tin liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình để kịp thời đề xuất với cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung để phù hợp với Luật này;
k) Giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm về tiếp cận thông tin theo quy định của pháp luật;
l) Báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền về tình hình bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân tại cơ quan mình khi được yêu cầu.
2. Người đứng đầu đơn vị được giao làm đầu mối cung cấp thông tin chịu trách nhiệm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin của cơ quan mình, kịp thời xử lý người cung cấp thông tin thuộc thẩm quyền quản lý có hành vi cản trở quyền tiếp cận thông tin của công dân.
3. Người được giao nhiệm vụ cung cấp thông tin có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời, đầy đủ cho công dân; không được nhũng nhiễu, gây cản trở, khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ.
Điều 35. Trách nhiệm của Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và Ủy ban nhân dân các cấp trong việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Ban hành theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật về tiếp cận thông tin;
b) Quy định biện pháp tạo điều kiện thuận lợi để người khuyết tật, người sinh sống ở khu vực biên giới, hải đảo, miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
c) Thực hiện các biện pháp phổ biến, giáo dục nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cán bộ, công chức, viên chức và công dân trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
d) Hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, công dân trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin;
đ) Thanh tra, kiểm tra việc thi hành pháp luật, xử lý vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin;
e) Hướng dẫn kỹ thuật về biện pháp, quy trình bảo quản thông tin và hệ thống quản lý thông tin;
g) Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc bảo đảm thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân.
2. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ quy định tại các điểm a, c, d, đ và g khoản 1 Điều này.
3. Bộ Thông tin và Truyền thông giúp Chính phủ thực hiện nhiệm vụ quy định tại điểm e khoản 1 Điều này.
4. Bộ Tư pháp giúp Chính phủ theo dõi chung việc thi hành Luật này.
5. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm quản lý nhà nước trên địa bàn, thi hành các biện pháp bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công dân theo hướng dẫn của Chính phủ.
6. Cơ quan nhà nước căn cứ vào điều kiện thực tế của mình, tạo điều kiện cho người yêu cầu trực tiếp đọc, xem, nghe, ghi chép, sao chép, chụp tài liệu tại trụ sở; trang bị bảng thông tin hoặc thiết bị khác để công khai thông tin.
Chương V
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 36. Điều khoản áp dụng
1. Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có quyền yêu cầu cung cấp thông tin liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ.
Trình tự, thủ tục yêu cầu cung cấp thông tin đối với người nước ngoài cư trú tại Việt Nam được áp dụng theo quy định tại Chương III của Luật này.
2. Công dân có thể yêu cầu cung cấp thông tin thông qua tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp của mình trong trường hợp nhiều người của tổ chức, đoàn thể, doanh nghiệp đó cùng có yêu cầu cung cấp thông tin giống nhau.
Chính phủ quy định chi tiết khoản này.
Điều 37. Hiệu lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2018.
Chính phủ, cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chi Tiết các điều, khoản được giao trong Luật.

Luật này đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016.


CHỦ TỊCH QUỐC HỘI




Nguyễn Thị Kim Ngân




MỚI